Mục tiêu tổng quát giai đoạn 2011 - 2020
Chiến lược phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020 đề ra mục tiêu: phát triển thị trường bảo hiểm phù hợp với định hướng phát triển nền kinh tế - xã hội và tài chính quốc gia trong từng thời kỳ; bảo đảm thực hiện các cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên; tăng cường tính an toàn, bền vững và hiệu quả của thị trường và khả năng đáp ứng nhu cầu bảo hiểm đa dạng của các tổ chức, cá nhân, góp phần ổn định nền kinh tế và bảo đảm an sinh xã hội; tiếp cận các chuẩn mực, thông lệ quốc tế về kinh doanh bảo hiểm và từng bước thu hẹp khoảng cách phát triển với các quốc gia trong khu vực.
Hiện nay, gần 10 triệu người có bảo hiểm y tế, sức khỏe; 12 triệu học sinh được bảo hiểm sức khỏe, tai nạn; 18 triệu lượt khách được bảo hiểm hàng không; trên 12 triệu lượt khách được bảo hiểm tai nạn đường sắt; 1.620 triệu lượt khách được bảo hiểm tai nạn hành khách vận chuyển đường bộ.
Cụ thể hơn: xây dựng hệ thống cơ chế, chính sách về kinh doanh bảo hiểm đầy đủ, minh bạch, bình đẳng và đồng bộ, tạo thuận lợi cho sự phát triển của thị trường, bảo đảm thực hiện các nghĩa vụ cam kết quốc tế của Việt Nam; nâng cao tính an toàn hệ thống, hiệu quả hoạt động và năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp bảo hiểm; khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp đa dạng hóa sản phẩm bảo hiểm, bảo đảm đáp ứng nhu cầu bảo hiểm đa dạng của các tổ chức và cá nhân; tạo thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân, đặc biệt là các đối tượng có thu nhập thấp được tham gia bảo hiểm; đa dạng và chuyên nghiệp hóa các kênh phân phối bảo hiểm, tạo cầu nối hiệu quả giữa các doanh nghiệp bảo hiểm và khách hàng; tổ chức công tác quản lý, giám sát thị trường chuyên nghiệp, hiện đại và hiệu quả; phát huy mạnh mẽ vai trò thành viên của cơ quan quản lý nhà nước về kinh doanh bảo hiểm tại Diễn đàn các cơ quan quản lý bảo hiểm Đông Nam Á và Hiệp hội quốc tế của các cơ quan quản lý bảo hiểm; từng bước tuân thủ các chuẩn mực quản lý, giám sát bảo hiểm do Hiệp hội quốc tế của các cơ quan quản lý bảo hiểm ban hành.
Một số chỉ tiêu cụ thể và lộ trình thực hiện
Thứ nhất, tổng doanh thu ngành bảo hiểm đến năm 2015 đạt 2 - 3% GDP và đến năm 2020 đạt 3 - 4% GDP.
Thứ hai, quy mô các quỹ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm nhằm đáp ứng nghĩa vụ chi bồi thường và trả tiền bảo hiểm cho khách hàng đến năm 2015 tăng 2 lần và đến năm 2020 tăng 4,5 lần so với năm 2010.
Thứ ba, tổng nguồn vốn huy động cho nền kinh tế của các doanh nghiệp bảo hiểm đến năm 2015 tăng 1,7 lần so với năm 2010, đến năm 2020 tăng 3,5 lần so với năm 2010, tương đương 3 - 4% GDP.
Thứ tư, đóng góp vào ngân sách nhà nước của ngành bảo hiểm đến năm 2015 tăng 2 lần và đến năm 2020 tăng 4 lần so với năm 2010.
Thứ năm, cơ quan quản lý nhà nước về kinh doanh bảo hiểm phấn đấu đến năm 2015 tuân thủ hoàn toàn 50% các nguyên tắc quản lý, giám sát bảo hiểm do Hiệp hội các nhà quản lý bảo hiểm quốc tế ban hành; đến năm 2020 sẽ tuân thủ hoàn toàn các nguyên tắc quản lý, giám sát bảo hiểm do Hiệp hội các nhà quản lý bảo hiểm quốc tế ban hành.
Giai đoạn 2011 - 2015, tổng giá trị được bảo hiểm là 11,7 triệu tỷ đồng, trong đó tổng giá trị kinh tế tài sản được bảo hiểm của khu vực doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế là hơn 10 triệu tỷ đồng, tổng giá trị được bảo hiểm trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ là 1 triệu tỷ đồng, trong lĩnh vực bảo hiểm y tế, sức khỏe là 700.000 tỷ đồng.
Hiện nay, gần 10 triệu người có bảo hiểm y tế, sức khỏe; 12 triệu học sinh được bảo hiểm sức khỏe, tai nạn; 18 triệu lượt khách được bảo hiểm hàng không; trên 12 triệu lượt khách được bảo hiểm tai nạn đường sắt; 1.620 triệu lượt khách được bảo hiểm tai nạn hành khách vận chuyển đường bộ.
Tính đến 31/12/2015, thị trường bảo hiểm Việt Nam có 61 doanh nghiệp. Trong đó, 29 doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ, 1 chi nhánh doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ nước ngoài, 17 doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ, 2 doanh nghiệp tái bảo hiểm và 12 doanh nghiệp môi giới bảo hiểm.
Cụ thể các chỉ tiêu thực hiện trong giai đoạn 2011 - 2015 như sau:
Về chỉ tiêu tổng doanh thu bảo hiểm, đến hết năm 2015, tổng doanh thu toàn thị trường ước đạt 84.506 tỷ đồng, bằng khoảng 2% GDP, hoàn thành chỉ tiêu đề ra tại Quyết định 193/QĐ-TTg là “tổng doanh thu ngành bảo hiểm đến năm 2015 đạt 2% - 3% GDP”. Mức tăng trưởng bình quân giai đoạn 2011 - 2015 đạt 16,8%/năm (từ 46.985 tỷ đồng năm 2011 lên 84.506 tỷ đồng năm 2015). Trong đó, lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ tăng bình quân 13,41%/năm, lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ tăng bình quân 22,9%/năm.
Về chỉ tiêu quy mô các quỹ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm, tính đến hết năm 2015, tổng dự phòng nghiệp vụ nhằm sẵn sàng đáp ứng nghĩa vụ chi trả bồi thường cho khách hàng của các doanh nghiệp bảo hiểm đạt 119.540 tỷ đồng, tăng 2,16 lần so với năm 2010, hoàn thành chỉ tiêu nêu tại Quyết định 193/QĐ-TTg vào cuối năm 2015 là “tăng gấp 2 lần so với năm 2010”.
Về chỉ tiêu tổng nguồn vốn huy động cho nền kinh tế của các doanh nghiệp bảo hiểm, tính đến hết năm 2015, tổng nguồn vốn đầu tư trở lại nền kinh tế của các doanh nghiệp bảo hiểm đạt 160.466 tỷ đồng, tăng 2,02 lần so với năm 2010, hoàn thành vượt chỉ tiêu đề ra tại Quyết định 193/QĐ-TTg là “tăng 1,7 lần so với năm 2010”.
Về chỉ tiêu đóng góp vào ngân sách nhà nước của ngành bảo hiểm, trong giai đoạn 2011 - 2015, thị trường bảo hiểm đã đóng góp vào ngân sách nhà nước 7.558 tỷ đồng, trong đó các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ đóng góp 3.215 tỷ đồng, các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ đóng góp 4.344 tỷ đồng. Đóng góp vào ngân sách nhà nước năm 2015 tăng 1,85 lần so với năm 2010.
Về chỉ tiêu tuân thủ 50% các nguyên tắc quản lý, giám sát bảo hiểm do Hiệp hội quốc tế các nhà quản lý bảo hiểm ban hành, hiện nay, theo báo cáo tự đánh giá với Diễn đàn các nhà quản lý bảo hiểm Đông Nam Á (AIRM), Việt Nam đã tuân thủ hoàn toàn 13/26 các nguyên tắc quản lý, giám sát bảo hiểm theo thông lệ quốc tế (đạt 50%).
Giải pháp phát triển thị trường giai đoạn 2016 - 2020
Thứ nhất, hoàn thiện hệ thống pháp luật trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm.
Thứ hai, nâng cao tính an toàn hệ thống, hiệu quả hoạt động và năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp bảo hiểm.
Cụ thể, cơ quan quản lý sẽ giám sát, đôn đốc doanh nghiệp bảo hiểm tự đánh giá, xếp loại theo các tiêu chí quy định tại Thông tư 195/2014/TT-BTC để có biện pháp quản lý, giám sát phù hợp, đảm bảo duy trì an toàn tài chính và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.
Đồng thời, nghiên cứu triển khai mô hình quản lý vốn trên cơ sở rủi ro nhằm tăng cường tính chủ động cho doanh nghiệp trong việc sử dụng và quản lý nguồn vốn, phù hợp với quy mô, phạm vi và đặc thù kinh doanh của từng doanh nghiệp.
Ngoài ra, ban hành các quy định về quản trị rủi ro doanh nghiệp, đặc biệt là các yêu cầu đối với hệ thống công nghệ thông tin, đảm bảo hệ thống công nghệ thông tin của doanh nghiệp phải kết nối được với các hệ thống chung của thị trường và cơ quan quản lý, giám sát, đáp ứng được các yêu cầu quản trị doanh nghiệp, hiệu quả hoạt động và yêu cầu giám sát của cơ quan quản lý.
Bên cạnh đó, hoàn thành và đưa vào triển khai trong thực tế Đề án nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho thị trường bảo hiểm nhằm phát triển nguồn nhân lực chuyên nghiệp hóa và có chuyên môn cao (như chuyên gia tính phí bảo hiểm) cho các doanh nghiệp bảo hiểm, qua đó tăng cường hiệu quả hoạt động và quản trị điều hành của doanh nghiệp.
Thứ ba, khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp phát triển và đa dạng hóa sản phẩm bảo hiểm.
Theo đó, cơ quan quản lý tiếp tục triển khai bảo hiểm nông nghiệp và bảo hiểm thủy sản, chú trọng phát triển các sản phẩm có ý nghĩa cộng đồng và an sinh xã hội cao và các sản phẩm bảo hiểm cho phép điều chỉnh linh hoạt phù hợp với nhu cầu của từng khách hàng cá nhân. Nghiên cứu, đề xuất cơ chế để khuyến khích các doanh nghiệp bảo hiểm phát triển các sản phẩm này. Xây dựng cơ sở dữ liệu chung của toàn thị trường phục vụ cho việc định phí bảo hiểm, tạo mặt bằng về mức phí sàn, góp phần lành mạnh hóa môi trường cạnh tranh trên thị trường.
Thứ tư, đa dạng và chuyên nghiệp hóa các kênh phân phối bảo hiểm.
Cụ thể, mở rộng hình thức thi đại lý bảo hiểm trực tuyến tập trung. Tăng cường quản lý chất lượng thi đại lý để nâng cao chất lượng và tính chuyên nghiệp của đại lý. Nghiên cứu ban hành hướng dẫn đối với các kênh phân phối mới như phân phối bảo hiểm qua thương mại điện tử, phân phối bảo hiểm qua điện thoại di động..., nhằm tạo hành lang pháp lý giúp doanh nghiệp bảo hiểm đa dạng hóa kênh phân phối.
Thứ năm, tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước về kinh doanh bảo hiểm.
Theo đó, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát để có những khuyến nghị, cảnh báo kịp thời cho các doanh nghiệp bảo hiểm và sửa đổi, bổ sung cơ chế chính sách cho phù hợp với thực tế. Nâng cao năng lực quản lý, giám sát của cơ quan quản lý nhà nước thông qua việc hoàn thiện mô hình tổ chức phù hợp, bổ sung bộ phận chuyên trách hỗ trợ phòng chống trục lợi bảo hiểm, hỗ trợ tư vấn pháp lý, trọng tài. Hiện đại hóa cơ sở hạ tầng, hệ thống công nghệ thông tin đáp ứng yêu cầu hoạt động quản lý, giám sát.
Xây dựng và triển khai hệ thống công nghệ thông tin kết nối giữa cơ quan quản lý nhà nước về kinh doanh bảo hiểm với các doanh nghiệp bảo hiểm và doanh nghiệp môi giới bảo hiểm, bao gồm cả các phần mềm quản lý, giám sát chuyên nghiệp và website của cơ quan quản lý nhà nước về kinh doanh bảo hiểm. Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu thống kê chung cho thị trường bảo hiểm, trong đó tập trung vào các sản phẩm bảo hiểm mang tính cộng đồng như bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới.
Thứ sáu, đẩy mạnh hợp tác quốc tế và hội nhập trong lĩnh vực bảo hiểm.
Về hợp tác quốc tế, mở rộng hợp tác với các quốc gia phát triển về bảo hiểm ngoài các quốc gia khu vực châu Á, nhằm học hỏi, chia sẻ kinh nghiệm, nâng cao hiệu quả trong công tác quản lý, giám sát thị trường. Phối hợp với các đối tác, các nhà tài trợ xây dựng, triển khai các chương trình hỗ trợ kỹ thuật, đáp ứng nhu cầu, bám sát các mục tiêu trong Chiến lược và giải pháp phát triển của thị trường bảo hiểm, tăng cường chất lượng chuyên gia tư vấn quốc tế và đa dạng hóa hình thức hỗ trợ, đặc biệt là các hình thức hỗ trợ đào tạo dài hạn, gắn với thực hành, thực tập.
Về hội nhập quốc tế, triển khai thực hiện hiệu quả các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế trong lĩnh vực bảo hiểm, các chương trình hợp tác đang thực hiện với các tổ chức và đối tác quốc tế.
Thị trường bảo hiểm ngày càng đóng vai trò quan trọng
Bảo hiểm ngày càng đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển của nền kinh tế - xã hội. Chính vì vậy, không chỉ riêng Việt Nam, ở bất kỳ quốc gia nào cũng luôn tìm nhiều cách khác nhau để thúc đẩy, khuyến khích hoạt động bảo hiểm phát triển, tăng số lượng các loại bảo hiểm bắt buộc, miễn giảm thuế thu nhập đối với người kinh doanh bảo hiểm, thuế thu nhập cá nhân nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư…
Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới và trong nước còn nhiều diễn biến khó lường, bất ổn, thị trường bảo hiểm Việt Nam thời gian qua vẫn đạt được những kết quả khá tích cực và ngày càng thể hiện được vai trò, vị trí quan trọng đối với nền kinh tế - xã hội. Thị trường bảo hiểm đã góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, bổ trợ cho các chính sách an sinh xã hội, bảo vệ tài chính cho các nhà đầu tư, thúc đẩy hội nhập, hợp tác kinh tế quốc tế...
Tuy nhiên, mức độ thâm nhập của bảo hiểm tại Việt Nam hiện nay mới đạt khoảng 2% GDP, thấp hơn so với mức trung bình của khối ASEAN (3,55%), châu Á (5,37%) và thế giới (6,3%). Đặc biệt, một số lĩnh vực như bảo hiểm thiên tai, bảo hiểm tài sản công, bảo hiểm xuất nhập khẩu, bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm sức khỏe.... có mức độ khai thác ở mức thấp so với tiềm năng.
Theo Quyết định số 175/QĐ-TTg ngày 27/1/2011 của Thủ tướng Chính phủ về chiến lược tổng thể phát triển khu vực dịch vụ của Việt Nam đến năm 2020, Nhà nước sẽ huy động mọi nguồn lực để phát triển đồng bộ, hoàn chỉnh và hiện đại, đạt chất lượng và năng lực cạnh tranh quốc tế các loại thị trường dịch vụ. Bên cạnh đó, sự tăng trưởng kinh tế và các chính sách hỗ trợ phát triển thị trường dịch vụ của Chính phủ trong thời gian sắp tới sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển và hoàn thiện của thị trường bảo hiểm.